Bệnh phong (leprosy)

Bệnh phong (leprosy)

1. Đặc điểm 

Bệnh phong là một bệnh nhiễm trùng kinh diễn do trực khuẩn Mycobacterium leprae gây nên. Bệnh tiến triển lâu dài, nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời có thể gây tàn tật nặng nề. Chính những tàn tật này làm cho người ta sợ hãi và xa lánh người bệnh. Hình ảnh lâm sàng của bệnh phong rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, biểu hiện ở da và thần kinh ngoại biên là hay gặp nhất.

1.1. Thương tổn da: Bao gồm các dát (gặp trong phong thể bất định), củ (gặp trong phong thể củ), mảng thâm nhiễm, u phong (gặp trong phong thể trung gian và thể u). Các thương tổn này kèm theo giảm hoặc mất cảm giác.

1.2. Thương tổn thần kinh ngoại biên: Các dây thần kinh ngoại biên viêm to (hay bị nhất là dây trụ, dây quay, dây chày sau...)mất cảm giác (nóng lạnh, đau, xúc giác) tại các vùng da do dây thần kinh chi phối. Nếu không điều trị kịp thời có thể dẫn đến tàn tật như: Cò ngón tay, ngón chân, bàn chân rủ, hở mi...

1.3. Triệu chứng khác: Ngoài biểu hiện ở da và thần kinh ngoại biên, có thể gặp một số triệu chứng khác như: Rối loạn bài tiết (da khô, bóng mỡ), rối loạn dinh dưỡng (rụng lông mày, loét ổ gà...), viêm mũi, viêm thanh quản...

2. Chẩn đoán

2.1. Chẩn đoán xác định: Một người được coi là bị bệnh phong khi có ít nhất một trong ba dấu hiệu sau:

+ Thương tổn da kèm theo mất cảm giác.
+ Thương tổn thần kinh có biểu hiện tàn tật: Dây thần kinh to, mất cảm giác, cò ngón hoặc teo cơ, ...
+ Xét nghiệm tại thương tổn tìm thấy trực khuẩn phong Mycobacterium leprae.

2.2. Chẩn đoán phân biệt:

Nấm da như lang ben, hắc lào; Giang mai củ; U hạt hình nhẫn; “Bớt” sắc tố.
Tất cả các thương tổn của các bệnh da nói trên có thể giống thương tổn da trong bệnh phong nhưng không giảm hoặc không mất cảm giác.

2.3. Chẩn đoán thể bệnh

Thể bất định (I-Indeterminate): Đây là thể đầu tiên hoặc là giai đoạn sớm của bệnh.

Thể củ (T-Tuberculoid): Thể này có sức đề kháng tốt nên có thể tự khỏi.

Thể trung gian (B-Borderline): Thể này mang đặc điểm của thể củ và thể u.

Phong thể trung gian BT

Phong thể trung gian BB

Phong thể trung gian BL

Thể u (L-Lepromatous): Đây là thể nặng, trước đây gọi là thể ác tính.

Phong thể u

Ngoài ra, để tiện cho việc điều trị tại cộng đồng, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã phân bệnh phong thành 2 nhóm sau đây:

+ Nhóm ít vi khuẩn (PB-Paucibacillary): Những bệnh nhân có chỉ số vi khuẩn (BI-Bacterial Index) âm tính và có từ 1-5 thương tổn da.

+ Nhóm nhiều vi khuẩn (MB-Multibacillary): Những bệnh nhân có từ 6 thương tổn da trở lên hoặc chỉ số vi khuẩn dương tính.

2.4. Xét nghiệm

Tìm trực khuẩn phong: Bệnh phẩm là dịch tiết hoặc một phần tổ chức sinh thiết tại các thương tổn da hoặc thương tổn thần kinh. Nhuộm theo phương pháp Ziehl-Neelsen thấy trực khuẩn bắt màu đỏ đứng thành bó, thành cụm hoặc rải rác.

Sinh thiết: Trong trường hợp khó chẩn đoán có thể sinh thiết thương tổn để xác định hình ảnh giải phẫu bệnh lý đặc hiệu.

3. Tác nhân gây bệnh

Tên tác nhân gây bệnh: Mycobacterium leprae thuộc họ Mycobacteriaceae. Hình thái: Vi khuẩn phong do nhà bác học Na Uy tìm ra năm 1873. Vi khuẩn này có hình thẳng, kháng cồn, kháng toan, bắt màu đỏ khi nhuộm Ziehl-Neelsen và bắt màu tím khi nhuộm Gram.

Trực khuẩn phong thuộc họ kháng cồn kháng toan. Trực khuẩn phong có sức đề kháng yếu, ra khỏi cơ thể chỉ sống được 1-3 ngày. Nhân lên chậm, chu kỳ sinh sản của nó là 12-13 ngày.

Cho đến nay, người ta vẫn chưa nuôi cấy được trực khuẩn này trên môi trường nhân tạo nên chưa chế tạo được vắc xin phòng bệnh phong.

4. Đặc điểm dịch tễ học

Bệnh phong biết đến từ 1400 trước công nguyên. Các tài liệu từ thời xa xưa ở Ấn Độ, Trung Quốc đã mô tả hình ảnh lâm sàng tương đối điển hình của bệnh phong. Theo thời gian, bệnh phong lan tràn một cách chậm chạp tới tất cả các nước trên thế giới. Năm 1873, Armauer Hansen mới tìm ra được căn nguyên của bệnh. Kể từ đó, việc điều trị bệnh phong mới được chú ý và đi đúng hướng. Tuy nhiên, với việc ra đời của đa hóa trị liệu từ năm 1982, tỷ lệ lưu hành bệnh phong mới giảm một cách đáng kể ở tất cả các nước trên thế giới. 

Việt Nam đã đạt được tiêu chuẩn loại trừ bệnh phong của WHO từ năm 1995 với tỷ lệ lưu hành là 0,9/10.000 dân số. Tuy nhiên, số bệnh nhân mới phát hiện hàng năm vẫn còn cao. Vì vậy chương trình phòng chống phong vẫn phải được duy trì cho tới khi đạt được mục tiêu cuối cùng là: Thanh toán hoàn toàn bệnh phong.

5. Nguồn truyền nhiễm

Trực khuẩn phong tồn tại ở các thương tổn da, niêm mạc, thần kinh ngoại biên, đặc biệt là ở các bệnh nhân thuộc nhóm nhiều vi khuẩn (MB- Multibacillary). Các bệnh nhân thể I (thể bất định) và thể T (thể củ) hầu như ít khi tìm thấy trực khuẩn phong tại thương tổn. Những bệnh nhân nhóm MB chưa được điều trị mới có khả năng lây lan. Tuy nhiên, sau điều trị bằng đa hóa trị liệu 1 tuần, hầu như không còn khả năng lây lan nữa.

Thời kỳ ủ bệnh của bệnh phong rất lâu, trung bình 3-5 năm hoặc có trường hợp có thể 5 năm, 10 năm.

6. Phương thức lây truyền

Bệnh phong là bệnh lây truyền, tuy nhiên lây chậm, lây ít và rất khó lây. Bệnh lây do tiếp xúc gần gũi, nhiều lần và thường xuyên với nguồn bệnh. Theo nhiều nhà nghiên cứu, tỷ lệ lây lan giữa vợ chồng, nếu một trong hai người bị bệnh chỉ từ 3% - 5%

7. Tính cảm nhiễm và miễn dịch

Do có miễn dịch chéo nên đa số chúng ta đều có miễn dịch và sức đề kháng chống lại vi khuẩn phong. Chính vì vậy, mặc dù nhiều người nhiễm vi khuẩn này nhưng chỉ một số rất ít bị bệnh mà thôi. Theo các nhà dịch tễ học, tuổi càng bé càng dễ bị bệnh phong và tỷ lệ bệnh phong ở nam giới cao hơn ở nữ giới

8. Phòng chống bệnh phong

Cho đến nay vẫn chưa có vắc xin phòng bệnh phong, vì vậy các biện pháp dự phòng bao gồm:

8.1. Biện pháp dự phòng

Tuyên truyền giáo dục sức khỏe bằng nhiều hình thức để mọi người hiểu rõ bệnh phong, không xa lánh, sợ hãi, tránh kỳ thị.

Vệ sinh môi trường, ăn uống, dinh dưỡng đầy đủ nâng cao sức đề kháng của cơ thể.

Khi người ngờ có triệu chứng của bệnh, cần đến các cơ sở y tế để được tư vấn, chẩn đoán và điều trị kịp thời, tránh tàn tật có thể xảy ra.

8.2. Nguyên tắc điều trị

Tất cả các bệnh nhân phong phải được điều trị bằng đa hóa trị liệu đủ liều, đủ thời gian qui định. Điều trị tại nhà và miễn phí hoàn toàn. Trường hợp có biến chứng có thể điều trị nội trú tại các cơ sở y tế. Phác đồ điều trị bằng đa hóa trị liệu cụ thể:

+  ​​​​​​Thể ít vi khuẩn (PB)
+  Rifampicin 600 mg: 1 tháng uống 1 lần có kiểm soát.
+  Dapson 100 mg: tự uống hàng ngày.
+  Tổng liều: Điều trị trong 6 tháng.
+  Thể nhiều vi khuẩn (MB)
+  Rifampicin 600 mg: 1 tháng uống 1 lần có kiểm soát.
+  Clofazimin 300 mg: 1 tháng uống 1 lần có kiểm soát.
+  Clofazimin 50 mg: Tự uống hàng ngày.
+  Dapson 50 mg: Tự uống hàng ngày.
+  Tổng liều: Điều trị trong 1 năm.

 

Bài trước Bài sau

Đặt lịch khám

Đang tải ảnh, bạn vui lòng đợi chút nhé!
Hình thức khám

Chọn hình 1
Chọn hình 2
Chọn hình 3
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Viết bình luận

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Viêm da cơ địa (atopic dermatitis)
Viêm da cơ địa (atopic dermatitis) là bệnh lý biểu hiện cấp tính, bán cấp hoặc mạn tính.
Chàm (eczema)
Eczema là một trạng thái viêm lớp nông của da cấp tính hay mạn tính, tiến triển từng đợt hay tái phát, lâm sàng biểu hiện bằng đám mảng đỏ da, mụn nước và ngứa
Viêm da dầu (seborrheic dermatitis)
Viêm da dầu là bệnh viêm da mạn tính thường gặp với biểu hiện là các tổn thương đỏ da, bong vảy tập trung ở những vùng da nhiều tuyến bã
Tổ đỉa (dyshidrotic eczema, dyshidrotic dermatitis, pompholyx)
Tổ đỉa là một loại phổ biến của bệnh chàm ảnh hưởng đến đôi tay (cheiropompholyx) và đôi bàn chân (pedopompholyx).
Viêm da tiếp xúc (contact dermatitis)
Viêm da tiếp xúc (VDTX) là phản ứng viêm da do tương tác giữa da và tác nhân bên ngoài
Ngứa
Ngứa là một cảm giác khó chịu của da khiến người bị ngứa phải gãi để bớt ngứa.
Nhiễm độc da dị ứng thuốc (drug eruption)
Nhiễm độc da dị ứng do thuốc là những biểu hiện rất thường gặp, là một dạng phản ứng dị ứng đặc biệt
Bệnh vảy nến (psoriasis)
Bệnh vảy nến là một bệnh đỏ da có vảy mạn tính, có tính di truyền, xuất hiện theo cơ chế tự miễn dưới tác động của các yếu tố khởi động
Rám má (chloasma)
Nám da (Melasma) là một là tình trạng tăng sắc tố mắc phải, lành tính ở các vùng da thường tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.
Trứng cá (acne)
Mụn trứng cá là bệnh thường gặp, thương tổn với nhiều mức độ khác nhau ở hơn 90% thanh thiếu niên.
Ung thư da
Ung thư da là sự phát triển bất thường của tế bào da, thường xuất hiện trên vùng da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.
Bệnh tay chân miệng
Bệnh tay chân miệng là bệnh truyền nhiễm lây từ người sang người, dễ gây thành dịch do vi rút đường ruột gây ra.
Bệnh zona (herpes zoster)
Trong thời kỳ tiền triệu của zona, bệnh nhân bị nhức đầu, sợ ánh sáng và khó ở, nhưng hiếm khi có sốt.
Bệnh mụn rộp (herpes)
Là bệnh ngoài da rất thường gặp, tác nhân gây bệnh là do virus có ái tính với tế bào da và niêm mạc, thuộc nhóm virus Herpes
Viêm nang lông và nhọt
Là phản ứng viêm của một hoặc nhiều nang lông ở bất kì vị trí nào trên cơ thể, trừ vùng bán niêm mạc và lòng bàn tay, bàn chân.
Bệnh nấm móng (onychomycosis)
Nấm móng là bệnh nhiễm trùng ở móng do nấm, chiếm tới 30% các bệnh nấm nông
Bệnh ghẻ (scabies, gale)
Bệnh ghẻ là bệnh ngoài da phổ biến, bệnh lây, do một loại côn trùng ký sinh trên da gây nên, có tên là Sarcoptes scabiei, Hominis
Bệnh lậu (gonorrhoeae)
Bệnh lậu (gonorrhoeae) là một bệnh nhiễm trùng sinh mủ xảy ra bề mặt niêm mạc do vi khuẩn lây truyền qua đường tình dục
Chlamydia
Chlamydia lây nhiễm từ người bệnh sang người lành theo hai con đường chính là qua sinh hoạt tình dục và từ mẹ sang con
Bệnh sùi mào gà (genital warts, condyloma, condylomata acuminata)
Nguồn bệnh là những người nhiễm HPV, ở cả nam lẫn nữ, nhất là gái mại dâm
Chất lượng đảm bảo

Chất lượng đảm bảo

Cam kết hàng chính hãng với giá cạnh tranh

Miễn phí vận chuyển

Miễn phí vận chuyển

Miễn phí vận chuyển toàn quốc

Dễ dàng đổi trả

Dễ dàng đổi trả

Dễ dàng đổi trả nếu khách hàng không hài lòng

Yên tâm thanh toán

Yên tâm thanh toán

Chuyển khoản hoặc thanh toán tiền mặt khi nhận hàng